SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi

Thực tế trong xã hội hiện nay, các bậc cha mẹ luôn quan tâm đến việc, ở trường làm sao để con mình được học đọc và học viết, nhất là đối với trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, mà chưa chú ý đến phát triển các kỹ năng cho trẻ, đặc biệt là kỹ năng tự phục vụ bản thân. Các bậc cha mẹ thường nuông chiều, bao bọc, làm hộ trẻ, khiến trẻ ỷ lại, ích kỷ, không quan tâm đến người khác và các kỹ năng tự phục vụ bản thân trong cuộc sống còn rất nhiều hạn chế. Khi ở lớp, trẻ rất ít vận động và chưa biết làm những công việc tự phục vụ bản thân như: lấy và cất đồ dùng cá nhân, vệ sinh cá nhân trẻ, chưa biết tự thay quần áo khi bẩn, nhiều trẻ tự xúc cơm thì cơm rơi vãi ra bàn. Chính vì lẽ đó, nên tôi nhận thấy rằng việc rèn kỹ năng sống nói chung hay kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi là một việc làm vô cùng cần thiết. Nếu trẻ không có kỹ năng tự phục vụ bản thân thì trẻ không thể chủ động và tự lập trong cuộc sống.
Là một giáo viên phụ trách lớp 5 - 6 tuổi, tôi luôn muốn trẻ của mình có khả năng độc lập trong mọi hoạt động và tự tin với bản thân để có tâm thế tốt khi bước vào trường Tiểu học. Bản thân tôi luôn muốn tìm ra cách tốt nhất để giúp trẻ tích cực hoạt động và mang lại hiệu quả cao trong quá trình rèn kỹ năng cho trẻ. Chính vì vậy nên tôi đã chọn “Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi” để thực hiện.
doc 9 trang skmamnonhay 19/03/2025 1260
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi

SKKN Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5-6 tuổi
 2
 - Giúp phụ huynh hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc hình thành kỹ 
năng tự phục vụ cho trẻ để cùng phối hợp với giáo viên trong việc rèn luyện 
thêm cho trẻ khi ở nhà.
 * Kết quả cần đạt được của giải pháp:
 - 94% trở lên trẻ mạnh dạn, tự tin và có một số kỹ năng tự phục vụ bản thân.
 - 95% trở lên trẻ có ý thức và biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường.
 - 93% trở lên trẻ biết quan tâm đến mọi người xung quanh.
 - 93% trở lên trẻ có khả năng tự giải quyết một số vấn đề.
 PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
 1. Đánh giá thực trạng: 
 Là giáo viên chủ nhiệm lớp 5 - 6 tuổi ở điểm trường lẻ với số lượng là 24 
trẻ trong lớp. Phụ huynh chủ yếu làm nghề nông, nương rẫy đời sống kinh tế còn 
thấp. Vì thế trong quá trình thực hiện tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau:
 * Thuận lợi: 
 - Nhà trường có môi trường sư phạm sạch, đẹp, an toàn. Khuôn viên rộng 
rãi thoáng mát, có cây xanh, có bồn hoa cây cảnh đẹp, sân bãi rộng rãi thoải mái 
cho cô và trẻ hoạt động trải nghiệm. Môi trường nhóm lớp, phòng học kiên cố, 
rộng rãi, các góc được bố trí sắp xếp gọn gàng, sạch sẽ, đảm bảo thẩm mỹ. Các 
đồ dùng vệ sinh được để cao, phân loại, đảm bảo hợp vệ sinh.
 - Lớp học được nhà trường trang bị đầy đủ các thiết bị, đồ dùng, đồ chơi 
để phục vụ cho các hoạt động cho cô và trẻ; đặc biệt là đồ dùng phục vụ cho 
hoạt động vệ sinh, các kỹ năng tự phục vụ của trẻ.
 - Bản thân là một giáo viên trẻ có ý thức trách nhiệm cao. Luôn nhiệt tình 
trong công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Luôn tự học tập bồi 
dưỡng chuyên môn, trau dồi kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, luôn tìm 
tòi, học hỏi qua các phương tiện truyền thông, sách báo để học hỏi, để nâng cao 
năng lực chuyên môn. 
 - Khả năng kiềm chế ở độ tuổi này tốt hơn so với các độ tuổi khác. Do vậy 
trẻ có thể thực hiện được theo các nhiệm vụ, yêu cầu của cô giáo và người lớn. 
 - Lớp có ban đại diện phụ huynh nhiệt tình quan tâm, đa số phụ huynh có 
ý thức phối hợp cùng giáo viên trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 
trẻ. Phụ huynh đưa trẻ đến lớp chuyên cần. 
 * Khó khăn 
 - Đồ dùng theo Thông tư và những đồ dùng cho trẻ thực hiện các kỹ năng 
chưa được đầy đủ. 4
nghe quan tâm, biết chia sẻ và cảm thông với những vấn đề trẻ đang gặp 
phải, tôn trọng trẻ, công bằng, không phân biệt đối xử, tạo điều kiện để trẻ được 
bộc lộ bản thân, biết cách khích lệ và động viên để trẻ thích nghi với môi 
trường, đặc biệt là cô giáo sẽ tạo ra ở trẻ sự an toàn, tin tưởng. Nhờ đó trẻ mới 
cảm thấy yên tâm, mới vui tươi, hồn nhiên, mạnh dạn, tự tin khám phá thế giới 
xung quanh, thỏa mãn hợp lý các nhu cầu để trẻ phát triển. 
 * Môi trường vật chất:
 - Môi trường trong lớp: Trang trí các góc đẹp mắt, phù hợp nội dung, đảm 
bảo tính sư phạm, an toàn và thuận tiện khi sử dụng theo hình thức “Giáo dục 
lấy trẻ làm trung tâm”, ở các góc đồ dùng đồ chơi sắp xếp phù hợp dễ tìm, dễ lấy 
để trẻ được tự mình lấy. Đồ dùng đồ chơi có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức 
và một số kỹ năng để phát huy hết tính tích cực của trẻ. 
 Tôi đã chủ động xây dựng “góc kỹ năng” phong phú. Ở góc này tôi đã 
trang trí những hình ảnh về kỹ năng tết tóc, buộc dây giày, cài khuy áo, thắt 
nớtrẻ đến đó thực hành và học hỏi ngay trên các hình ảnh này. Bên cạnh đó ở 
góc này tôi đã bố trí 1 chiếc gương lớn để trẻ có thể soi gương và thực hành 
ngay chính trên bản thân của mình. Điều này giúp trẻ có nhiều cơ hội thực hành 
và học hỏi bằng các hình thức khác nhau, đồng thời trẻ có thể cùng nhau hợp tác 
chia sẻ kinh nghiệm. Thông qua góc kỹ năng tự phục vụ, rèn luyện thêm cho trẻ 
tính độc lập tự biết phục vụ bản thân.
 - Môi trường ngoài lớp: Tôi đã xây dựng góc trải nghiệm phù hợp để trẻ 
được vui chơi ở góc theo các hình thức khác nhau và có nhiều cơ hội thực hành 
trải nghiệm như góc thiên nhiên, vườn hoa, vườn rau, giúp trẻ phát triển tình 
cảm xã hội, tình yêu thiên nhiên hoa lá.
 Sảnh hành lang trước: Bố trí giá để đồ dùng cá nhân cho trẻ, để giá dép, 
ngăn nắp, thuận tiện cho việc trẻ cất lấy đồ dùng.
 Sảnh hành lang phía sau: Tôi sắp xếp các giá phơi khăn mặt, giá để ca 
cốc, bàn chải, kem đánh răng,... có đầy đủ kí hiệu cho trẻ dễ lấy, dễ sử dụng. 
 Qua việc xây dựng môi trường trong và ngoài lớp học như vậy, tôi thấy 
trẻ thực hiện đúng thao tác và có kỹ năng thực hiện rất tốt các kỹ năng tự phục 
vụ bản thân. Góp phần hình thành kĩ năng tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ mà không tốn 
nhiều thời gian và công sức, lại tạo được sự thoải mái, không gò bó đối với trẻ. 
 2.2. Biện pháp 2: Giáo dục tính tự lập thông qua một số hoạt động hàng 
ngày của trẻ:
 Việc lồng ghép giáo dục kỹ năng tự lập cho trẻ vào các hoạt động hằng 
ngày ở mọi lúc mọi nơi là vô cùng cần thiết. Bởi mỗi một hoạt động trẻ lại được 6
tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thần, phát triển 
nhân cách một cách toàn diện. 
 * Giờ hoạt động vệ sinh cá nhân của trẻ hàng ngày như: Trẻ biết tự lấy 
khăn lau mặt, rửa tay dưới vòi nước sạch khi tay bẩn sau khi đi vệ sinh, biết đi 
vệ sinh đúng nơi quy định.
 * Thông qua hoạt động ăn, ngủ: 
 - Giờ ăn: Giờ ăn là một trong những hoạt động tạo thói quen trong ăn 
uống, đây là lúc trẻ thực hiện hành vi văn minh nhiều nhất. Tôi hướng dẫn trẻ 
giúp cô kê bàn ghế, chuẩn bị khăn, cho trẻ chia thìa, chia cơm cho các bạn. 
Trong khi ăn tôi rèn luyện cho trẻ ăn phải từ tốn, ăn chậm, nhai kĩ, không được 
nói chuyện, khi ho phải che miệng, không làm rơi cơm, khi làm rơi thì phải nhặt 
bỏ vào dĩa đựng cơm rơi. Khi ăn xong trẻ biết tự cất bát, thìa, biết tự cất ghế gọn 
gàng, biết rửa tay, lau mặt sạch sẽ, biết lấy nước uống. Qua đó giáo dục trẻ có 
những thói quen, hành vi văn minh trong ăn uống. 
 Ví dụ: Đến giờ ăn, lớp tôi có một số trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào dĩa 
và đặt vào các bàn, nhưng loay hoay mãi không biết chia như thế nào, có khi còn 
chia thiếu, rồi làm rơi hết thìa xuống sàn. Mỗi lần như vậy tôi không tỏ ra khó 
chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ hướng dẫn trẻ đếm và chia thìa tương ứng với số 
bạn trong bàn đó, sau đó tôi cho trẻ chia tiếp các bàn tiếp theo. 
 - Giờ ngủ: Trẻ biết giúp cô trải chiếu, tự lấy gối, đắp chăn. Khi ngủ dậy 
trẻ biết giúp cô cất chiếu, cất gối, gấp chăn cất vào đúng nơi quy định. 
 Được tự tay làm những công việc mình thích tôi thấy trẻ rất phấn khởi, có 
thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới xong, nhưng các lần sau đó tôi thấy các thao tác 
của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn. 
 * Hoạt động chiều: Tôi cho trẻ xem băng hình giáo dục các kỹ năng tự 
phục vụ như tự mặc quần áo, xếp áo quần, chải đầu, buộc tóc, sau đó tôi sẽ làm 
thao tác mẫu cho trẻ xem rồi cho trẻ thực hiện dưới sự quan sát hướng dẫn của 
cô. Việc rèn trẻ các kỹ năng tự phục vụ trong các hoạt động trong ngày như vậy, 
tôi thấy trẻ lớp tôi đã có thói quen, nề nếp trong việc tự phục vụ của bản thân, trẻ 
có ý thức tự lập hơn trong những công việc đơn giản, phù hợp với khả năng của 
trẻ, từ đó hình thành kỹ năng tự phục vụ.
 Trong quá trình cho trẻ thực hành trải nghiệm, rèn kỹ năng thực tế như 
rèn kỹ năng đi tất, mặc giày dép, rửa mặt đánh răng, thì tôi luôn lồng ghép 
thông các bài thơ, câu chuyện bài hát trong chương trình.
 Ví dụ: Khi kể câu chuyện “Gấu con bị sâu răng” thì tôi hỏi trẻ vì sao Gấu 
con bị sâu răng? Qua đó tôi giáo dục trẻ phải thường xuyên súc miệng đánh 8
 Đạt Chưa đạt
 TT Nội dung
 SL % SL %
 Trẻ mạnh dạn, tự tin và có một số kỹ 
 1 23/24 95,8 1/24 4,2
 năng tự phục vụ bản thân.
 Trẻ có ý thức và biết giữ gìn vệ sinh 
 2 24/24 100% 0 0
 cá nhân, vệ sinh môi trường.
 Trẻ biết quan tâm đến mọi người 
 3 23/24 95,8 1/24 4.2
 xung quanh.
 Trẻ có khả năng tự giải quyết một số 
 4 23/24 95,8 1/24 4.2
 vấn đề. 
 2. Đối với giáo viên: 
 Qua quá trình triển khai thực hiện thì bản thân tôi đã có thêm kinh 
nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và rèn luyện kỹ năng tự 
phục vụ cho trẻ nói riêng. Và có nhiều đổi mới trong xây dựng kế hoạch giáo 
dục, nhiều đổi mới phương pháp trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
 Tạo được mối quan hệ gần gũi, mật thiết với phụ huynh và tạo được niềm tin 
trong lòng cha mẹ trẻ. Từ đó phụ huynh rất tin tưởng, yên tâm khi gửi gắm con cho 
nhà trường, cho giáo viên để đi làm việc.
 “Biện pháp rèn luyện kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5- 6 tuổi” được áp dụng 
thực hiện tại lớp tôi bước đầu đã đạt được những kết quả đáng phấn khởi, chất 
lượng giáo dục rèn luyện kỹ năng tự phục vụ ở trẻ tăng lên rõ rệt, được đồng 
nghiệp, phụ huynh đánh giá cao. Biện pháp đã được nhân rộng ra các lớp trong 
cụm, trong trường mầm non nơi tôi đang công tác, hy vọng biện pháp này sẽ 
được áp dụng rộng rãi đối với các trường mầm non trong toàn huyện.
 Trong quá trình thực hiện biện pháp sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, 
rất mong được sự góp ý bổ sung của hội đồng Ban giám khảo, hội đồng khoa 
học cấp trên để biện pháp này được hoàn thiện hơn./.
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 HIỆU TRƯỞNG NGƯỜI VIẾT BÁO CÁO
 Trần Thị Lan Lê Thị Trang

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_luyen_ky_nang_tu_phuc_vu_cho_tre_5.doc