SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học

“ Non sông việt Nam có được trở lên vẻ vang hay không, Dân tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ phần lớn ở công lao học tập của các cháu”.
Câu nói của Hồ chủ Tịch đã đi vào lòng người tạo ra động lực to lớn cho hàng triệu người dạy và người học, đó chính là lễ và văn mà chúng ta phải truyền lại cho lớp kế cận, cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Đất nước ta đang trong thời đại bùng nổ thông tin, buộc chúng ta phải đạt được các mục tiêu và có quyết tâm cao, lẽ tất nhiên chúng ta chưa thực hiện được tất cả các kế hoạch đề ra. Vì vậy nhiệm vụ đó đang trông chờ vào các thế hệ mầm non chủ nhân tương lai của đất nước, ưu thế mà ta có được hiện nay là thế hệ trẻ khoẻ mạnh có sự đồng nhất cả về năng lực và trí tuệ, có tiềm năng sáng tạo, vì thế ta phải tin vào thế hệ trẻ tương lại sẽ đứng vững trên nền truyền thống lịch sử vẻ vang đó. Đảng và nhà nước ta đánh giá rất cao về vai trò của giáo dục, đầu tư vào giáo dục là đầu tư đúng hướng và được coi là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của công tác chăm sóc giáo dục mầm non phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ, việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận vứi các môn học khác như: môn toán, môn tạo hình, chữ cái , môn âm nhạc ...đặc biệt cho trẻ làm quen với văn học là cho trẻ hoạt động nhiều để trẻ phát triển vốn từ luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp .
docx 17 trang skmamnonhay 14/02/2025 1460
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học

SKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn học
 Phần I: Đặt vấn đề.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
Phần II: Giải quyết vấn đề
1. Chương 1. Tổng quan:
1.1. Cơ sở lý luân :
2.2. Cơ sở thực tiễn:
2. Chương 2. Nội dung nghiên cứu:
2.1. Thực trạng:
2.2. Các giải pháp hữu ích:
2.3.TỔ chức thực hiện:
2.4. Kết quả đạt được:
2.4. Bài học kinh nghiệm.
Phần III: Kết luân, kiến nghị.
1. Kết luân:
2. Kiến nghị: 1.1. Cơ sở lý luân :
 “ Non sông việt Nam có được trở lên vẻ vang hay không, Dân tộc Việt nam 
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không 
chính là nhờ phần lớn ở công lao học tập của các cháu”.
 Câu nói của Hồ chủ Tịch đã đi vào lòng người tạo ra động lực to lớn cho hàng 
triệu người dạy và người học, đó chính là lễ và văn mà chúng ta phải truyền lại 
cho lớp kế cận, cho những chủ nhân tương lai của đất nước. Đất nước ta đang trong 
thời đại bùng nổ thông tin, buộc chúng ta phải đạt được các mục tiêu và có quyết 
tâm cao, lẽ tất nhiên chúng ta chưa thực hiện được tất cả các kế hoạch đề ra. Vì 
vậy nhiệm vụ đó đang trông chờ vào các thế hệ mầm non chủ nhân tương lai của 
đất nước, ưu thế mà ta có được hiện nay là thế hệ trẻ khoẻ mạnh có sự đồng nhất 
cả về năng lực và trí tuệ, có tiềm năng sáng tạo, vì thế ta phải tin vào thế hệ trẻ 
tương lại sẽ đứng vững trên nền truyền thống lịch sử vẻ vang đó. Đảng và nhà 
nước ta đánh giá rất cao về vai trò của giáo dục, đầu tư vào giáo dục là đầu tư đúng 
hướng và được coi là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu của công tác chăm sóc giáo 
dục mầm non phát triển và hình thành nhân cách cho trẻ, việc phát triển ngôn ngữ 
mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp cho trẻ dễ dàng tiếp cận vứi các môn học 
khác như: môn toán, môn tạo hình, chữ cái , môn âm nhạc ...đặc biệt cho trẻ làm 
quen với văn học là cho trẻ hoạt động nhiều để trẻ phát triển vốn từ luyện phát âm 
và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp .
2.2. Cơ sở thực tiễn:
a. Đặc điểm nhà trường:
 Nhà trường đã xây dựng thành công trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức 
độ 2. Với tổng số học sinh hơn 700 cháu gồm 16 nhóm lớp, chất lượng giảng dạy 
ngày một cao, được phụ huynh học sinh tin tưởng số lượng học sinh đi lớp ngày 
một đông.
 b. Đặc điểm của lớp :
 Năm học 2016 -2017 tôi được phân công làm việc nhóm lớp 5-6 tuổi. Tổng số 
cháu 44 cháu, trong đó 21 cháu nữ, 23 cháu nam, với độ tuổi đồng đều, 100% trẻ 
ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận một cách chung chung.
- Ví dụ : muỗi - mũi, phân biệt l - n, 35% khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không 
đồng đều, không ổn định, vì vậy nên trẻ chưa chú ý đều đến các thành phần trong 
câu, trong từ, bớt âm khi nói. 40 % kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận 
thức hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. 35% 
trẻ nói, phát âm do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ nói tiếng 
địa phương.
- Đa số phụ huynh bận công việc không trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói, trẻ 
được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần.
Ví dụ: Trẻ chỉ cần nhìn vào đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không cần 
dùng lời để yêu cầu hoặc xin phép, đây cũng là một trong những nguyên nhân của 
việc chậm phát triển ngôn ngữ.
 Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn 
trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm 
quen văn học.
2.2. Các giải pháp hữu ích:
2.2.1. Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của trẻ:
a. Đặc điểm phát âm:
 Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, rõ hơn, ít ê a, ậm ừ, trẻ vẫn còn phát âm sai 
những âm thanh khó, những từ có 2-3 âm tiết như : lựu , lịu, hươu...
b. Đặc điểm về vốn từ:
 Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng từ 1300-2000 từ. Danh từ và động từ trẻ vẫn 
chiếm ưu thế, tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn.
 Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ tính chất không gian như: Cao thấp, dài 
ngắn, rộng hẹp, các từ chỉ tốc độ như: nhanh- chậm, các từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, 
trắng, đen, ngoài ra các từ có khái niệm tương đối như :hôm qua, hôm nay, ngày 
mai, trẻ dùng chưa chính xác. Một số trẻ biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: 
Xám, xanh lá cây, tím, da cam.
 100% trẻ biết sử dụng các từ cao thấp, dài, ngắn, rộng, hẹp, 100% số trẻ đếm 
được 1-10, trẻ có thể đếm được nhiều hơn thế, tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn trang phục, đồ dùng phù hợp với nội dung câu chuyện trẻ sẽ kể dựa theo hình thức 
khác nhau.
c. Sử dụng các loại rối trang phục, mô hình, học cụ thu hút sự chú ý của trẻ.
- Tôi sử dụng các nguyên liệu mở như: thanh tre, bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ...để 
làm thành những con vật xinh xắn, trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo 
ý thích.
Ví dụ: từ bìa cứng, xốp làm những con vật ngộ ngĩnh, đa dạng màu sắc để thu hút 
trẻ .
 Ví dụ : Kể chuyện “ Dê con nhanh trí” để gây hứng thú cho trẻ tôi chuẩn bị một 
sân khấu rối, các con rối được làm bằng hình nộm vải vụn được cải biên màu sắc 
rực rỡ.
 Ví dụ : kể chuyện “ Quả bầu tiên”để làm trang phục cho trẻ tôi dùng quần áo để 
trẻ hoá thân vào nhập vai các nhân vật.
d. Chú ý rèn nề nếp, rèn kỹ năng và kích thích sự sáng tạo của trẻ:
- Trẻ biết chia nhóm kể chuyện, tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn, linh hoạt 
qua việc trẻ biểu diễn đóng kịch.
- Tạo điều kiện cho trẻ thoả thuận và tự chọn vai kể của mình theo ý thích về sự 
sáng tạo của trẻ, có thể dùng lời khuyến kích động viên trẻ thực hiện vai diễn của 
mình.
e. Làm quen văn học với các bộ môn khác:
- Theo phương pháp dạy học tích hợp với môn làm quen văn học có thể lồng 
ghép, kết hợp với tất cả các môn khác và giúp cho các bộ môn khác trở lên sinh 
động hơn.
Ví dụ: Môn Âm nhạc hoạt động bổ trợ đề tài: câu truyện: ”Nhổ củ cải” cho trẻ vận 
động theo bài “ Củ cải trắng”.
Ví dụ: Môn Khám phá khoa học: chủ đề: “Động vật nuôi trong gia đình”, câu 
truyện “Gà trống, mèo con và cún con”. Trẻ biết tên, đặc điểm, nơi sống của một 
số con vật nuôi trong gia đình.
 Ví dụ: Môn toán: Tên bài dạy:” Cao hơn- thấp- hơn”, câu chuyện “Cây khế” trẻ 
áp dụng được sự so sánh đặc điểm về ngoại hình của hai anh em. - Tháng 3 - 4- 5: tôi xây dựng những trò chơi giúp cho trẻ nói đúng ngữ pháp, nói 
mạch lạc, ví dụ: Nói theo mẫu câu như câu truyện “Cây khế” người anh tham lam 
chiếm hết ruộng vườn, nhà cửa, trâu bò, của cha mẹ để lại.
Ví dụ: “Câu truyện Tích chu”Bà biến thành chim vì....trẻ nói bà muốn bà đi tìm 
nước uống, hoặc Tích Chu ham chơi không lấy nước cho bà ...cô lưu ý thay đổi 
mẫu câu khác nhau từ câu đơn giản đến câu phức tạp, từ câu phức
tạp đến câu đơn giản, đặt câu từ kết nối tuyện để trẻ có khả năng nói đúng ngữ 
pháp, phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ.
- Một khi đã có một số vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin kể chuyện, đóng kịch một 
cách hứng thú hơn.
2.2.4. Làm đồ dùng đồ chơi:
- Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo, lịch cũ, 
ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, quần áo cũ nhằm phát triẻn ngôn 
ngữ cho trẻ.
- Dựa và từng chủ đề tôi triển khai kế hoạch làm đồ dùng đồ chơi một cách cụ thể 
mỗi chủ đề có một bộ đồ chơi phục vụ cho quá trình giảng dạy và vui chơi tôi cho 
các cháu vào hoạt động chơi góc để trẻ tạo ra nhừng đồ chơi làm bằng lá cây, giấy 
vụn, hột hạt vẽ và tô màu những bức tranh, những hình ảnh trẻ sưu tầm gợi mở 
cho trẻ tưởng tượng kể chuyện.
- Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy, tôi hướng dẫn trẻ làm ra những con rối 
thật xinh xắn từ câu truyện cổ tích trẻ học được, sáng tạo ra những nhân vật trong 
truyện mà trẻ thích.
- Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh sinh động màu sắc đẹp để gây hứng 
thu cho trẻ nghe, xem để trẻ biết cách sử dụng và giữ gìn đồ chơi.
- Kể chuyện cho trẻ cần đa dạng: Truyện thần thoại, truyện lịch sử, truyện về các 
loài vật, cây cối.. .không nên kể cho trẻ nghe truyện có bạo lực hoặc lời nói thô 
tục, chuyện về chết chóc, hành hạ tàn bạo hoặc một vấn đề nào đso khiến trẻ sợ 
hãi, trẻ không muốn đóng nhân vật đó, không thích kể lại truyện đó.
- Càn khơi gợi hứng thú để trẻ đến với truyện: tôi sẽ sử dụng tranh ảnh, cho trẻ 
nghe đọc thơ, hát những bài hát có nội dung gần gũi với câu truyện sắp kể hoặc kể nhân vật trong chuyện, sau đó đặt câu hỏi về tên truyện tên nhân vật trong chuyện 
về các hành động của các nhân vật trong truyện.
+ Lần kể tiếp cô kể chuyện kèm tranh minh họa hoặc không kèm tranh , cô trò 
chuyện với trẻ về các từ, cụm từ miêu tả đặc điểm, tính cách hành động của các 
nhân vật trong chuyện, dạy trẻ nhắc lại 1 cách diễn cảm câu nói của các nhân vật 
trong chuyện. Để giúp trẻ nhớ lại trình tự của câu chuyện tôi kể trích dẫn và dặt 
câu hỏi lôi kéo trẻ kể tiếp theo cô.
+ Khi trẻ đã thuộc truyện cô cho trẻ tự kể hoặc cho trẻ kể chuyện theo vai trong 
đó cô là người dẫn truyện, trẻ đóng vai là một nhân vật kể lại truyện hoặc đóng 
kịch theo vai diễn.
- Yêu cầu đối với trẻ:
+ Kể nội dung chính của câu chuyện không yêu cầu trẻ kể chi tiết lời kể phải có 
cấu trúc ngữ pháp, giọng kể diễn cảm to, rõ ràng, không ê a, ấp úng cố gắng thể 
hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại.
 + Chuẩn bị: tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe trước khi kể cô giao 
nhiệm vụ ghi nhớ và kể lại.
 + Tiến hành:
 Đàm thoại với trẻ về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục đích giúp trẻ 
nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể, lựa chọn hình 
thức ngôn ngữ: cách dùng từ đặt câu.
 Ví dụ: “Truyện Cây khế”: Theo con tính cách của người anh như thế nào?
 + Yêu cầu với câu hỏi: Đặt câu hỏi về tên nhân vật, thời gian, không gian, hành 
động chính, lời nói, cá tính nhân vật, truyện” Dê con nhanh trí”: Dê mẹ dặn dê con 
như thế nào? Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức và ngữ pháp. Khi đàm 
thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa, giảng từ mới, 
những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể.
 Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể lại nội 
dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ (mới ). 
Mầu chuyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt được: Về 
nội dung, độ dài, trình độ câu chuyện. Ví dụ : Chủ đề : “Gia đình” , câu chuyện : “Tích chu” .
- Cháu Gia Huy đóng vai Tích Chu (lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời ), 
sau biết lỗi ( tỏ thái độ biết nhận lỗi, giọng trầm ): Bà ơi bà ở đâu ? Bà ở lại với 
cháu. Cháu sẽ đem nước cho bà, bà ơi !
- Cháu Khánh Huyền đóng vai bà (giọng run run , rứt khoát ): Bà đi đây ! Bà 
không về nữa đâu !
- Cháu Minh Hà đóng vai Bà Tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng nói 
dịu dàng, nhỏ nhẹ): Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thì cháu phải đi lấy nước suối 
tiên cho bà cháu uống, đường lên suối tiên xa lắm, cháu có đi được không?
2.3.2. Các hoạt động khác dạy trẻ kể lại những sự vật hiện tượng trẻ quan 
sát được .
2.3,2,1 . Hoạt động ngoài trời:
 Dạy trẻ kể về những sự vật hiện tượng xung quanh cuộc sống hàng ngày, những 
điều trẻ đã biết, tưởng tượng... trẻ phải tự lựa chọn nội dung, hình thức, ngôn ngữ, 
sắp xếp chúng theo một trình tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo dạng: 
Kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề.
Ví dụ: Miêu tả hiện tượng thời tiết: trời âm u, mây đen, gió thổi mạnh trời sắp 
mưa.
- Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện xảy 
ra trong thời gian nhất định của nhân vật nào đó.
- Ví dụ: Truyện ( dê con nhanh trí) con cáo giả vờ làm dê mẹ lúc dê đi vắng và 
nhúng chân vào chậu bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng cáo vẫn bị dê con 
phát hiện và đuổi cáo đi.
2.3.2.2. Hoạt động góc:
- Dạy trẻ kể theo trí giác: Không ngừng phát triển ngôn ngữ độc thoại nên cho trẻ 
nói đúng ngữ pháp tư thể tác phong khi trẻ nói và phát triển các cơ quan cảm giác. 
Bởi vì trẻ quan sát tốt mới miêu tả tốt. Mục đích nhằm phát triển ngôn ngữ mạch 
lạc cho trẻ phát triển tư duy lô gíc, khả năng quan sát, trẻ tập trung vào đồ chơi.
- Chuẩn bị: Chọn đồ dùng, đồ chơi phải đẹp hấp dẫn về hình thức để làm cho trẻ 
hứng thú, rung động trẻ khi kể. Chọn đồ chơi, vật thật có thể như : Gương, lược, 

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_mach_lac_cho_tre_5.docx
  • pdfSKKN Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi thông qua hoạt động làm quen văn.pdf