SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non

Để trẻ có sức khỏe tốt. mang lại hiệu quả cao trong học tập và làm việc, chuẩn bị nguồn nhân lực đạt yêu cầu cho đất nước trong tương lai, điều này phụ thuộc rất lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Như vậy, việc tìm hiểu các cách thức tổ chức, cá phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ, để từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ là một việc hết sức quan trọng trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của trẻ. Nhận thức được nhiệm vụ quan trọng của mình, tôiđã suy nghĩ, tìm hiểu và đã tìm racác biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ. Chính vì lẽ đó mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non”.
Bản thân tôi sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn. Tôi rất thích trẻ con, thích vui đùa, chơi trò chơi cùng các bé. Tuy nhiên sự phát triển thể chất của trẻ ở vùng nông thôn chưa được phụ huynh quan tâm nhiều so với trẻ ở thị trấn, thành phố. Họ chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến tình trạng sức khỏe của con mình hoặc là họ chưa biết làm thế nào để giúp cho con mình có một sức khỏe tốt, một thể lực khỏe mạnh, cân đối, hài hòa. Từ cơ sở trên, bản thân là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 5 – 6 tuổi, tôi thấy sự cần thiết phải tìm ra những giải pháp tốt nhất để có thể tổ chức các hoạt động giúp cho trẻ phát triển tốt về thể chất. Chính vì vậy, tôi xin trình bày sáng kiến khinh nghiệm của mình với đề tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non”. Phạm vi tiến hành thực hiên đề tài này là trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non.
doc 20 trang skmamnonhay 10/03/2025 1330
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non

SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non
 của bản thân, chưa tự tập luyện cấc bài tập thể dục thể thao nhằm rèn luyện sức 
khỏe cơ thể. Cơ thể của các bé ở lứa tuổi này đang trong giai đoạn phát triển, kỹ 
năng vận động còn vụng về, trẻ đang cần được người lớn hướng dẫn, cung cấp kỹ 
năng thực hiện các bài tập, các vận động cơ bản.
 Để trẻ có sức khỏe tốt. mang lại hiệu quả cao trong học tập và làm việc, 
chuẩn bị nguồn nhân lực đạt yêu cầu cho đất nước trong tương lai, điều này phụ 
thuộc rất lớn vào phương pháp giảng dạy của giáo viên. Như vậy, việc tìm hiểu các 
cách thức tổ chức, cá phương pháp giáo dục thể chất cho trẻ, để từ đó đưa ra một 
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ là một việc hết 
sức quan trọng trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của trẻ. Nhận thức được 
nhiệm vụ quan trọng của mình, tôiđã suy nghĩ, tìm hiểu và đã tìm racác biện pháp 
để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ. Chính vì lẽ đó mà tôi chọn đề tài: 
“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 
5 - 6 tuổi ở trường mầm non”. 
 1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
 Bản thân tôi sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn. Tôi rất thích trẻ con, thích 
vui đùa, chơi trò chơi cùng các bé. Tuy nhiên sự phát triển thể chất của trẻ ở vùng 
nông thôn chưa được phụ huynh quan tâm nhiều so với trẻ ở thị trấn, thành phố. 
Họ chưa thực sự chú trọng, quan tâm đến tình trạng sức khỏe của con mình hoặc là 
họ chưa biết làm thế nào để giúp cho con mình có một sức khỏe tốt, một thể lực 
khỏe mạnh, cân đối, hài hòa. Từ cơ sở trên, bản thân là một giáo viên trực tiếp 
giảng dạy lớp 5 – 6 tuổi, tôi thấy sự cần thiết phải tìm ra những giải pháp tốt nhất 
để có thể tổ chức các hoạt động giúp cho trẻ phát triển tốt về thể chất. Chính vì 
vậy, tôi xin trình bày sáng kiến khinh nghiệm của mình với đề tài: “Một số biện 
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở 
trường mầm non”. Phạm vi tiến hành thực hiên đề tài này là trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi 
ở trường mầm non.
 2. Phần nội dung
 2.1.Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
 Xuất phát từ thực tế, trẻ em nào cũng cần được vui chơi, được quan tâm, 
chăm sóc và được giáo dục để phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt trong những 
năm qua thực hiện phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh 
tích cực” theo định hướng “Xây dựng trường MN lấy trẻ làm trung tâm”, tôi luôn 
bám sát các công văn chí đạo: 
 Chỉ thị Số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về việc phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013. 
 Số 1741/BGDĐT-GDTrH v/v: Hướng dẫn đánh giá kết quả phong trào thi 
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
 Thực hiện nhiệm vụ năm học 2017 - 2018, tiếp tục phát huy phong trào thi 
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, hưởng ứng thực hiện 
chuyên đề “Giáo dục phát triển thể chất cho trẻ mầm non”, hướng dẫn thực hiện 
nhiệm vụ năm học tập trung vào nội dung: tăng cường các hoạt động vui chơi, trải 
nghiệm, khám phá nhằm hình thành, rèn luyện và phát triển một cách toàn diện các 
mặt đức, trí, thể, mĩ cho trẻ.
 2 - Ngày nay, điều kiện kinh tế gia đình của các bậc phụ huynh ngày một khá 
lên. Vì thế đa số các gia đình đều có các phương tiện giải trí như: Ti vi, điện thoại, 
máy vi tínhTrẻ thường say mê với các trò chơi, các bộ phim hoạt hình trong điện 
thoại, máy vi tính, ti vi. Khi tan học, được ba mẹ đón về nhà hay sau những bữa ăn 
liền lập tức vào xem phim hay chơi trò chơi mà không có thời gian cho trẻ vận 
động nhẹ nhàng. Cũng chính vì thế mà tình trạng trẻ bị béo phì, thừa cân tăng. Lớp 
tôi có 2 cháu bị thừa cân. Và tình trạng này cũng đang có chiều hướng đi lên với 
những cháu có tỉ lệ BMI cao. Trẻ ít vận động, thừa cân dẫn đến mệt mỏi, không 
muốn vận động. Ngược lại, có một số cháu có sức khỏe không tốt, cân nặng và 
chiều cao đang ở mức mấp mé của suy dinh dưỡng và thấp còi nên các cháu cũng 
thường mệt mỏi, không thích hoạt động.
 - Khả năng chú ý có chủ định của một số trẻ còn kém. Trẻ dể dàng tham gia 
vào các hoạt động, các trò chơi vần động nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi 
trò chơi khi trẻ không còn hứng thú.
 - Trong lớp có một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và không thích 
tham gia vào các hoạt động tập thể.
 - Việc giáo viên lồng ghép các trò chơi vận động trong các hoạt động còn 
lúng túng.
 - Một số phụ huynh chưa nhận thấy được tầm quan trọng của việc chăm sóc 
- giáo dục trẻ ở trường mầm non nhất là việc giáo dục, rèn luyện và phát triển thể 
chất cho trẻ.
 Từ thực trạng trên mà việc tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển thể chất 
cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non nói chung và ở lớp của tôi nói riêng chưa thực 
sự mang lại kết quả như mong muốn.
 * Khảo sát thực trạng:
 Vào đầu năm học, tôi đã tiến hành khảo sát trẻ lớp mình để nắm bắt tình 
hình và có kế hoạch, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng trong các hoạt động giáo 
dục phát triển thể chất cho trẻ mẫu giáo. Cụ thể như sau:
 Tỷ lệ
 TT Nội dung khảo sát Lớp
 % đạt
 1 Trẻ chú ý vào kỹ năng cô hướng dẫn 5 – 6 tuổi 60
 Trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động, trò chơi 
 2 5 – 6 tuổi 65
 vận động
 3 Trẻ thuộc lời các bài hát thể dục, các bài tập nhịp điệu 5 – 6 tuổi 60
 Trẻ nắm được các kỹ năng vận động, kỹ năng chơi 
 4 5 – 6 tuổi 60
 trò chơi vận động
 * Từ kết quả khảo sát trên, tôi rút ra nhiều nguyên nhân như sau:
 - Hình thức, phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển thể chất 
của giáo viên chưa phù hợp, chưa linh hoạt.
 - Việc lực chọn các bài tập vận động cơ bản, các bài tập thể dục nhịp điệu 
chưa phù hợp với lứa tuổi.
 - Sự phối hợp giữa giáo viên và phụ huynh chưa thường xuyên, thiếu sự 
thống nhất trong công tác chăm sóc - giáo dục trẻ.
 4 Ví dụ:“Bò theo đường dích dắc” đặt tên “Đường về nhà chuột” cháu làm 
chú chuột bò về nhà. 
 Hoặc là sử dụng tác phẩm văn học để gây hứng thú cho trẻ. Một số câu 
chuyện trong chương trình giáo dục mầm non có thể sử dụng được vào quá trình 
hướng dẫn trẻ luyện tập trong các hoạt động phát triển vận động.
 Ví dụ: Bật xa 40 - 50cm, ta dùng hình ảnh chú dê đen trong câu chuyện 
“Chú dê đen”, dê đen đi vào rừng để kiếm cái ăn gặp con suối nhỏ, dê phải nhảy 
qua con suối nhỏ để vào rừng, cho trẻ làm những chú dê bật qua con suối. 
 Bài tập đi trên ghế thể dục ta lồng vào câu chuyện “Tích Chu” Khi đi lấy 
nước suối tiên cho bà Tích Chu phải đi qua cây cầu khỉ, cho trẻ làm Tích Chu đi 
qua cầu khỉ lấy nước suối tiên cho bà, như vậy cái ghế băng trở thành cầu khỉ
 Những hình ảnh phù hợp với đặc điểm của bài tập vận động sẽ giúp cho việc 
hình thành ở trẻ biểu tượng thị giác về vận động đó và nó ăn sâu vào trong trí nhớ 
của trẻ. 
 Cách này áp dụng khi cung cấp bài tập mới giúp trẻ hứng thú và khi sử 
dụng lại ở những tiết ôn và bài tập tổng hợp giúp cho trẻ nhớ tên bài tập không 
máy móc, dễ nhớ bài tập, làm giảm thời gian giải thích phải tập như thế nào.
 Việc đặt tên cho bài tập vận động cơ bản, đặt tên cho dụng cụ tập như vậy 
trẻ được làm những con vật hay những nhân vật mà trẻ yêu thích, trẻ được sắm vai 
các nhân vật, được làm những động tác của các con vật như vậy trẻ cảm thấy rất 
vui và say mê thực hiện. 
 Dùng tác phẩm văn học cũng là một cách khá hay lôi cuốn trẻ vào bài tập 
một cách tự nhiên mà trẻ không hề hay biết là mình đang luyện tập, vừa có tác 
dụng giúp trẻ tích cực hơn với hoạt động sau, vừa giúp trẻ nhớ lại những bài thơ, 
câu chuyện đã học. 
 Bên cạnh, việc sử dụng vật chuẩn cũng giúp khắc sâu hơn những hình ảnh 
về động tác đã học, củng cố kỹ thuật khó và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực 
hiện các bài tập vận động một cách nhanh chóng. Ví dụ: “Ném trúng vòng” xác 
định đích. “xếp hàng theo tổ” dựa vào vật chuẩn hoặc vạch vẽ đánh dấu – xác định 
định hướng không gian. Có thể những vạch chuẩn là các bộ phận trên cơ thể trẻ, ví 
dụ: Cúi người, tay chạm mũi bàn chân. Cũng có thể vạch chuẩn ở xung quanh trẻ, 
như quay về phía cô
 6 việc hết sức quan trọng. Bởi vì, nếu chỉ chọn bài nhạc phù hợp với chủ đề nhưng 
giai điệu bài hát buồn thì tiết học cũng trầm theo. 
 Ví dụ: Tôi đã lựa chọn âm nhạc như sau, đối với chủ đề “Giao thông”. Khởi 
động chọn bài “Đường em đi”, bài tập phát triển chung chọn bài “Em đi qua ngã 
tư đường phố”, hồi tĩnh chọn bài “Đèn xanh đèn đỏ”. Có như vậy cháu cảm thấy 
mình phấn khởi và vui vẻ ngay từ đầu tiết học.
 c. Thay đổi đội hình khi tập luyện.
 Mỗi bài tập vận động cơ bản đều có một đặc điểm riêng và giúp phát triển 
những tố chất khác nhau, do đó chúng ta có thể lựa chọn đội hình phù hợp khi cho 
cháu tập luyện. 
 Ví dụ: Khởi động cho cháu đi vòng tròn đến bài tập phát triển chung cho 
cháu chuyển đội hình hàng ngang, sau đó tùy theo vận động cơ bản mà lựa chọn 
đội hình cho phù hợp như “Ném bóng vào vòng” thì cho cháu xếp đội hình 2 hàng 
dọc.
 Trẻ đi đội hình vòng tròn
 8 nhàm chán ngay từ đầu tiết học. 
 * Giải pháp 2: Giải pháp giúp trẻ nắm vững kỹ thuật bài tập, kỹ năng vận 
động.
 Để giúp trẻ nắm vững kỹ thuật bài tập, kỹ năng vận động, giáo viên cần 
nghiêm túc thực hiện các bước sau:
 a. Nghiên cứu kỹ nội dung và kỹ thuật bài tập:
 Vì sao chúng ta phải nghiên cứu kĩ nội dung và kỹ thuật bài tập trước khi lập 
kế hoạch và tổ chức hoạt động? Bởi vì bản thân chúng ta có hiểu rõ và nắm vững 
vấn đề thì mới truyền đạt tốt vấn đề đó đến người nghe giúp người nghe tiếp thu 
tốt, đây là một mắt xích không thể tách rời nhau khi ta thực hiện nhiệm vụ giáo 
dục. Nghiên cứu để nắm vững nội dung và kỹ thuật bài tập thì mới đề ra mục đích 
giáo dục và yêu cầu cần đạt được ở trẻ cho phù hợp.
 Ví dụ: Bài tập bật xa, sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo 
dục mầm non yêu cầu với trẻ 5 – 6 tuổi phải bật xa 40 - 50 cm. 
 Khi nghiên cứu thì ta phải xem xét thời điểm mà ta tổ chức cho trẻ luyện 
tập bài tập này là đầu năm hay giữa hoặc cuối năm học, là tiết dạy bài mới hay tiết 
ôn luyện, xem xét thể lực của các cháu như thế nào, những cháu nào sức khỏe bình 
thường, những cháu nào đang ốm, những cháu nào có những căn bệnh tim, hen 
suyễn để ta đưa ra yêu cầu cho phù hợp. Nếu là lần tập luyện đầu tiên ở đầu năm 
thì giải thích kỹ rõ ràng, yêu cầu trẻ bật xa ở mức tối thiểu của yêu cầu 40 – 45 cm, 
nếu bài tập này ở thời điểm giữa hoặc cuối năm là tiết ôn luyện thì nâng dần yêu 
cầu trẻ bật xa ở mức tối đa 45 – 50cm. Với những cháu đang bệnh hoặc những 
cháu bị bệnh tim, hen suyễn thì ta phải xem xét khả năng của trẻ và cho trẻ luyện 
tập theo khả năng để tránh ảnh hưởng và nguy hiểm đế sức khỏe của trẻ. 
 Khi nghiên cứu nội dung và kỹ thuật bài tập của các bài tập vận động cơ 
bản, chúng ta phải hình dung ra đội hình, sơ đồ bài tập, cách bố trí điểm xuất phát, 
đích. Nắm vững kỹ thuật bài tập, cách hướng dẫn bài tập đó như thế nào cho ngắn 
gọn, giúp trẻ dể hiểu, lời hướng dẫn như thế nào cho phù hợp với động tác thực 
hiện. Định hình được cần chuẩn bị những đồ dụng, dụng cụ gì cho hoạt động đó. 
 Nghiên cứu kỹ nội dung, kỹ thuật bài tập trước khi soạn giảng là chuẩn bị tốt 
cho việc truyền đạt của mình khi lên tiết.
 b. Làm mẫu, hướng dẫn và giải thích phải rõ ràng.
 Làm mẫu là thông qua thị giác để hình thành biểu tượng trực quan về bài 
tập vận động. Làm mẫu khi dạy bài tập mới cho trẻ hoặc khi ôn luyện nếu thấy cần 
thiết. Khi làm mẫu giáo viên phải tập đúng chính xác để trẻ có biểu tượng đúng về 
bài tập vận động giúp trẻ thực hiện tốt. Đồng thời với việc làm mẫu chính xác thì 
đòi hỏi giáo viên phải có hiệu lệnh dứt khoát, khớp với động tác, không ê a, vì như 
vậy sẽ giúp cho cháu học được tính phối hợp giữa hiệu lệnh của cô và động tác của 
trẻ cũng như tập cho trẻ tính nhanh nhạy và chuẩn xác.
 Với những bài tập giáo viên có thể làm mẫu được thì khi tổ chức cho trẻ 
hoạt động lần đầu, dạng tiết cung cấp kiến thức mới, giáo viên nên làm mẫu để 
hình thành biểu tượng một cách chính xác cho trẻ. Khi làm mẫu giáo viên cần chọn 
vị trí đứng để tập sao cho tất cả các cháu đều nhìn thấy trọn vẹn mẫu, nói rõ ràng 
cụ thể, ngắn gọn, lời hướng dẫn giải thích phải khớp với từng động tác tư thế thực 
hiện mẫu. 
 10

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_luong_giao_duc_the.doc