SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5-6 tuổi
Trong quá trình dạy trẻ tôi nhận thấy rằng đặc điểm của bộ môn văn học rất phù hợp với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Để trẻ phát huy hết khả năng ngôn ngữ của mình thông qua các tác phẩm văn học thì khi tổ chức hoạt động thì giáo viên là người gây hứng thú cho trẻ qua từng hoạt động. Bản thân tôi đã ý thức được việc dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với văn học và đã có những biện pháp dạy trẻ. Tuy nhiên các biện pháp dạy trẻ còn đơn điệu chưa thực sự hấp dẫn đối với trẻ.
Từ những mặt hạn chế đó xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục cho trẻ mầm non với thực tiễn ở trường mầm non.
Để giải quyết mâu thuẫn trên tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẫm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi”
Qua đó có một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng và tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động.
Từ những mặt hạn chế đó xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục cho trẻ mầm non với thực tiễn ở trường mầm non.
Để giải quyết mâu thuẫn trên tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẫm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi”
Qua đó có một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng và tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động.
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5-6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 5-6 tuổi
ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, TẠO HỨNG THÚ TRONG HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI TÁC PHẪM VĂN HỌC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngôn ngữ là thành tựu lớn nhất của con người, là một tín hiệu đặc biệt để gắn kết con người lại với nhau. Đối với trẻ mầm non nếu ngôn ngữ phát triển mạnh mẽ sẽ tạo cho trẻ những cơ hội lĩnh hội những gì đang diễn ra xung quanh trẻ. Chính vì vậy mà sự nghiệp giáo dục cũng phải vươn tới tầm cao mới là điều kiện để tạo ra năng lực trí tuệ do vậy giáo viên là nhân tố quan trọng trong việc giúp trẻ phát triển nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, thẩm mỹ, tình cảm kỹ năng xã hội. Muốn làm được điều đó trước hết người giáo viên phải có đủ đức, đủ tài, phải là người thực sự yêu nghề, mến trẻ, là người mẹ thứ hai của trẻ. Để đáp lại lời dạy của Bác Hồ kính yêu “ Mẫu giáo tốt mở đầu cho nền giáo dục tốt” Tôi luôn quan tâm tới việc làm sao phải dạy trẻ trở thành những người công dân có ích cho đất nước sau này để sau này các cháu là người chủ nhân tương lai của đất nước là những người có ích cho xã hội. Chúng ta đã từng nghe : “Trẻ lên ba cả nhà học nói” Đúng như vậy trẻ ở tuổi mầm non thật đáng yêu và ngây thơ, tâm hồn trong sáng như tờ giấy trắng. Trẻ luôn khắc sâu mọi lời nói, hành động của người lớn đặc biệt là cô giáo. Mọi hoạt động học tập và vui chơi đều đem lại cho trẻ những điều kỳ lạ. Ở lứa tuổi mầm non trẻ con hay hiếu động, sự chú ý chưa cao vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Việc dạy người không phải đơn thuần là ngày một, ngày hai mà phải dạy, phải học trăm năm suốt đời.Việc giáo dục trẻ đòi hỏi một người nhà giáo có nhân cách tốt đạo đức tốt và điều quan trọng hơn cả là cần một nhà giáo thực sự có tâm với nghề. Giáo dục mần non hiện này luôn hướng tới việc lấy trẻ mà trung tâm giúp trẻ hình thành nhân cách, tư duy, phát triển toàn diện 5 lĩnh vực. 2 2. Mục tiêu nghiên cứu Trong quá trình dạy trẻ tôi nhận thấy rằng đặc điểm của bộ môn văn học rất phù hợp với việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Để trẻ phát huy hết khả năng ngôn ngữ của mình thông qua các tác phẩm văn học thì khi tổ chức hoạt động thì giáo viên là người gây hứng thú cho trẻ qua từng hoạt động. Bản thân tôi đã ý thức được việc dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với văn học và đã có những biện pháp dạy trẻ. Tuy nhiên các biện pháp dạy trẻ còn đơn điệu chưa thực sự hấp dẫn đối với trẻ. Từ những mặt hạn chế đó xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục cho trẻ mầm non với thực tiễn ở trường mầm non. Để giải quyết mâu thuẫn trên tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẫm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi” Qua đó có một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng và tạo hứng thú cho trẻ khi tham gia hoạt động. 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp lá 1 – Trường mầm non Anh Đào 4. Phạm vi nghiên cứu Trường mầm non Anh Đào – Huyện Krông Nô – Đăk Nông 5. Phương pháp nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lí luận “Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẫm văn học cho trẻ 5 - 6 tuổi” - Phương pháp đọc sách, phân tích, thu thập những tài liệu có liên quan đến việc dạy trẻ làm quen với tác phẩm văn học để xây dựng kinh nghiệm cho đề tài. - Phương pháp thực nghiệm: áp dụng một số biện pháp dạy trẻ 5 - 6 tuổi kể lại chuyện. - Phương pháp dùng tình cảm khích lệ. 4 tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng, tạo hứng thú trong hoạt động làm quen với tác phẫm văn học cho trẻ 5- 6 tuổi ” Có thể nói trẻ mầm non chưa biết đọc chữ song trẻ rất thích được nghe kể chuyện, xem tranh ảnh, Nhu cầu hiểu biết tiềm ẩn trong con người ở lứa tuổi này cũng là động lực thúc đẩy khát vọng tìm hiểu thế giơi xung quanh. Không những thế mọi hoạt động ở trường mầm non như là một điều kỳ lạ và thần kỳ đối với trẻ.Ở lứa tuổi này người ta nhận thấy có sự tăng lên rõ rệt sự cảm nhận của trẻ về hình thức nghệ thuật tác phẩm, hình thành sự chú ý tới các phương tiện lời nói diễn cảm, khi kể chuyện chúng ta nhất thiết phải cho trẻ hiểu và rung cảm ,Trẻ thường coi những gì nghe được trong chuyện là cái có thực ngoài đời. Hoạt động làm quen với tác phẩm văn học có thể nói là một loài hình nghệ thuật đặc sắc đối với đời sống con người. Đặc biệt đối với trẻ lứa tuổi mầm non thì các tác phẩm văn học có sức ảnh hưởng vô cùng to lớn là tiền đề hình thành nhân cách cho trẻ. Vì vậy yếu tố giáo dục , những tác động sư phạm chính là cung cấp cho trẻ những tri thức cuộc sống, làm dày lên những kinh nghiệm của trẻ . Thế giới trong mắt trẻ chỉ là những gì trẻ được nhìn, nghe và cảm nhận hằng ngày, trẻ chưa nhận thức được thế giới bên ngoài thật rộng lớn và bao la. Xuất phát từ cách nhìn nhận thế giới tự nhiên, xã hội, con người là một tổng thể thống nhất, lại do sự phát triển của trẻ dưới 6 tuổi chưa tách bạch thành các chức năng riêng biệt, nên trong quá trình dạy học không thể thực hiện một cách riêng lẻ, tách rời các nội dung cũng như các mặt giáo dục.Do đó tích hợp trở thành một nguyên tắc cơ bản trong giáo dục mầm non, được hiểu như một liên kết, xâm nhập, đan xen những quá trình sư phạm tạo thành một thể thống nhất, tác động đồng bộ đến trẻ.Nhờ đó hiệu quả sư phạm được nhân lên. Trong quá trình tổ chức cho trẻ làm quen với văn học từng bước đưa các nội dung tích hợp theo các chủ đề, các hoạt động học : Như hoạt động tạo hình, hoạt động âm nhạc , hoạt động làm quen với môi trường xung quanh...được hướng theo chủ đề 6 * Khó khăn - Một số trẻ chưa mạnh dạn còn nhút nhát trong khi kể chuyện - Khi tổ chức cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học giáo viên còn sử dụng nhưng phương pháp rập khuôn máy móc, chưa có sự đổi mới và sáng tạo trong khi truyền thụ. Chưa thực sự lấy trẻ làm trung tâm. - Khả năng chú ý của trẻ còn hạn chế, không đều. 3. Giải pháp, biện pháp * Biện pháp 1 : Sử dụng dụng cụ trực quan. Trong quá trình giảng dạy tôi luôn sử dụng các phương tiện trực quan, đa dạng phong phú và luôn đổi mới để thu hút trẻ như các sự vật, hiện tượng trong thế giới thiên nhiên, nhà cửa, cây cối, sông hồ, rừng núi, dùng tranh vẽ. Để gây được sự chú ý của trẻ thì đồ dùng của cô phải đẹp, mới lạ sáng tạo. (Tranh liên hoàn, tranh mô phỏng, con rối cử động, những câu chuyện qua băng đĩa, video , powerpoint) và dựng cảnh theo từng tác phẩm bởi vì đồ dùng trực quan có đẹp, hấp dẫn thì trẻ mới chú ý học, trẻ càng tập trung bao nhiêu thì việc tiếp thu kiến thức càng đạt bấy nhiêu. Khi sử dụng đồ dùng trực quan cô phải chú ý có những thủ thuật nhỏ để tạo sự hấp dẫn cho trẻ. VD : Cô sử dụng rối minh hoạ cho nhân vật em bé trong câu chuyện : “ Bông hoa cúc trắng” Cô phải thể hiện những hành động như ngắt bông hoa, đếm cánh hoa hay cô bé ôm mặt buồn bã bên cạnh đó lời kể của cô phải phù hợp với hoàn cảnh, ngữ diệu giọng điệu cũng thay đổi sao cho phù hợp. Khi kể chuyện có tranh ảnh minh hoạ cô nên khuyến khích trẻ kể theo ý tưởng tượng của mình trẻ tha hồ được sáng tạo ra câu chuyện của riêng mình theo hình ảnh những nhân vật trong câu chuyện mà cô đã kể cho trẻ.Từ đó phát triển tư duy giúp khã năng tưởng tượng, sáng tạo của trẻ được hình thành Kể chuyện cho trẻ nghe bằng những hình ảnh sinh động ngộ nghĩnh phù hợp với nội dung và các tình tiết trong chuyện. Sự kết hợp giữa rối và hoạt cảnh trong câu chuyện sẽ góp phần không nhỏ trong việc khắc sâu nội dung câu chuyện, tính cách nhân vật, ai tốt, ai xấu, ai đáng chê cười, ai đáng để 8 Trẻ tham gia kể chuyện cùng cô, cô đóng vai trò như một người dẫn truyện các tình tiết, các đoạn hội thoại trong câu chuyện hãy khuyến khích cho trẻ thể hiện. Cô nên tạo điều kiện cho nói, càng nhiều trẻ nói càng tốt. Khi trẻ tham gia kể cùng cô nên gợi ý để trẻ có thể thể hiện giọng kể cho phù hợp với tính cách của mỗi nhân vật. Cùng một nhân vật nhưng trong các bối cảnh khác nhau, sắc thái ngôn ngữ cũng khác nhau. Bằng những biện pháp nhân hoá gắn với kỹ thuật cường độ, nhịp điệu, ngắt giọng, cử chỉ, ánh mắt để thể hiện rõ nét. Cường độ là thể hiện độ vang của giọng to nhỏ, nhịp độ nhanh chậm của lời kể. Ví dụ: khi kể cho trẻ nghe chuyện “Chú dê đen”. Đoạn 1: Từ đầu đến “ Tao sẽ ăn thịt mày” giọng kể thể hiện điệu bộ tính cách của chó sói quát nạt, hách dịch. giọng dê trắng nhút nhát, run sợ. Đoạn 2: Từ “ có một chú dê đen”..đến hết truyện giọng chó sói trở nền rụt rè sợ hãi Khi kể truyện cần sử dụng cử chỉ điệu bộ ánh mắt để hỗ trợ thêm cho giọng kể của mình để trẻ có thể làm được điều này thì cô giáo là người thể hiện và trẻ sẽ bắt chước theo cử chỉ điệu bộ của cô. Cử chỉ giúp cho cô giảm bớt phần khô cứng và tăng thêm khả năng diễn cảm nên cũng gây cho trẻ được sự thích thú. Nhưng cũng không nên lạm dụng cử chỉ điệu bộ quá nhiều làm cho trẻ cứ chú ý vào đó mà quên cả việc kể chuyện. Tôi thường đọc, kể chuyện cho trẻ nghe vào mọi lúc, mọi nơi như giờ chơi, đi dao, tham quan Đặc biệt sau mỗi lần kể thì cô giáo tóm tắt lại câu chuyện một lần, dần dần trẻ đã hiểu và thích được nghe cô kể chuyện nhiều hơn. Để khi trẻ tham gia kể cùng cô thì trẻ thể hiện các vai trong câu chuyện một cách tròn trịa nhất. Qua phương pháp này trẻ được tự nình thể hiện các lời thoại phát triển ngôn ngữ mạch lạc, mở rộng vốn từ. Phát triển cảm xúc cho trẻ thông qua giọng điệu nhân vật ngoài ra còn phát triển tư duy cho trẻ tăng khả năng ghi nhớ và suy nghĩ ra cách để thể hiện giọng nhân vât. Khi trẻ 10 Một câu hỏi cô có thể mời nhiều trẻ trả lời vì mỗi trẻ có một cách suy nghĩ và cách trả lời khác nhau. Cô nên khuyến khích để tất cả các trẻ đều được nói trong giờ phát triển ngôn ngữ. Có thể gọi thêm một vài trẻ khác trả lời hoặc nhận xét câu trả lời của bạn nhằm khuyến khích sự mạnh dạn tự tin ở trẻ. Sửa những câu trả lời không đúng, thiếu chính xác bằng các câu nói nhẹ nhàng (theo cô thìcác con thử nhìn lại xem nào, có phảibạn nào có ý kiến khác) Ví dụ: Trong chuyện “Ba cô gái” cô đặt câu hỏi trong chuyện “Ba cô gái” cho trẻ như . Trong câu chuyện có những nhân vật nào ? Các con có nhận xét gì về tính cách của các nhân vật? Các con yêu nhân vật nào? Vì sao? (cô gọi nhiều trẻ trả lời sau đó gọi trẻ khác nhận xét câu trả lời của bạn. Cô nói theo cháu, cháu có nhận xét gì thêm?). Tác dụng của việc đàm thoại rất to lớn đối với giáo dục trẻ. Vì trẻ thích tìm tòi thắc mắc, ngược lại trong khi đàm thoại giúp cho tôi biết được nhận thức của trẻ tới đâu? Hiểu nhiều hay ít? Sai hay đúng? Khả năng tư duy diễn đạt của trẻ thế nào? Qua đàm thoại giúp cho trẻ biết gợi hình, gợi cảm ví von. So sánh, nhân cách hoá lên từng câu chuyện để phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ. Tổ chức trò chơi trong hoạt động đàm thoại 12
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_tao_hung_thu_trong.doc